Thường sơn, từ độc tính đến khả năng điều trị các chứng sốt rét
Ngày xưa, ở núi Thường Sơn (Tứ Xuyên, Trung Quốc) có một loại cây quý điều trị được nhiều bệnh, trong đó có bệnh sốt rét. Sau này, người ta lấy tên núi để đặt tên cho cây và từ đó, chúng ta có vị thuốc “thường sơn” (常山).
Nói về loài cây này, nó thường được trồng để vừa làm cảnh, vừa làm thuốc và ngay từ tên khoa học cũng rất ấn tượng: Dichroa febrifuga (1).
Trong đó, chữ “dichroa” có nghĩa là hai màu (vì thân lá của cây này có hai màu là xanh và tím đỏ, hoa của nó cũng có màu xanh lam hoặc hồng), còn chữ “febrifuga” có nghĩa là đuổi sốt (vì cây này giúp hạ sốt và điều trị sốt rét rất hay).

Khi dùng làm thuốc, phần rễ cây phơi khô được gọi là “thường sơn” còn phần cành lá phơi khô được gọi là “thục tất” (ở nước ta chủ yếu dùng lá). Nếu dùng rễ, ta nên chọn những phần rễ nặng, chắc và có màu vàng nhạt. Nếu dùng lá thì nên chọn những lá phơi xong vẫn còn nguyên vẹn.
Công dụng làm thuốc của cây thường sơn
Về mặt dược lý, các kết quả nghiên cứu từ năm 1945 đến nay cho thấy cây thuốc này có các hoạt tính như:
Còn theo y học cổ truyền thì rễ cây có vị đắng, tính hàn; cành lá thì có vị cay, tính bình. Nhìn chung, vị thuốc này có độc nhưng dùng với liều lượng thích hợp thì lại điều trị được nhiều bệnh như:
Cách dùng: sắc lấy nước uống từ 6 – 12 g mỗi ngày (thường dùng lá).
Lưu ý: Đây là vị thuốc gây nôn (kể cả chiết xuất ancaloit của nó cũng gây nôn). Vì vậy, khi uống, chúng ta cần tuân thủ liều lượng và chỉ dẫn của thầy thuốc, tránh dùng quá liều dẫn đến ngộ độc. Mặt khác, theo kinh nghiệm dân gian thì ta có thể lấy thuốc tẩm với rượu, sao qua rồi mới sắc uống thì sẽ giảm bớt buồn nôn (2).

Các bài thuốc kết hợp từ cây thường sơn
Như vừa nói ở trên, thường sơn là vị thuốc gây nôn. Vì vậy, muốn giảm cảm giác buồn nôn thì khi dùng thuốc này, ta nên kết hợp cùng các vị thuốc khác để trung hòa.
1. Thuốc triệt ngược điều trị các chứng sốt rét
- Chuẩn bị: 6 g thường sơn, 4 g củ sắn dây, 1 g thảo quả và 2 g hạt cau.
- Thực hiện: rửa sơ các vị thuốc trên rồi cho vào ấm, sau đó đổ hai chén nước vào, sắc đến khi nước rút còn hơn nửa chén thì ngưng, chắt ra và chia thành 3 lần uống trong ngày (2).
- Gia giảm: nếu người bệnh sốt nhiều hơn rét thì ta tăng liều lượng cát căn lên (có thể lên đến 10 g tùy trường hợp). Ngược lại, nếu sốt ít hơn rét thì ta tăng liều thảo quả lên thành 3 g (2).
2. Điều trị sốt rét nhiều năm (hơn 3 năm vẫn không khỏi)
- Chuẩn bị: rễ cây thường sơn và hoàng liên (mỗi loại 40 g).
- Thực hiện: lấy hai vị trên ngâm với 100 g rượu trắng (ngâm qua đêm), sau đó vớt ra và nấu lấy nước uống trước khi lên cơn sốt rét 1 giờ. Lưu ý: liều lượng của bài thuốc này khá cao, vì vậy, bạn cần tham khảo thầy thuốc trước khi dùng (3).
3. Điều trị đau tức ngực và vướng đờm khò kè, không nhổ ra được
Vì thường sơn có tính gây nôn nên với các chứng đờm vướng, vị thuốc này mang lại hiệu quả khá cao.
- Chuẩn bị: 6 g rễ cây thường sơn và 4 g cam thảo Bắc.
- Thực hiện: cho hai vị thuốc trên vào ấm, nấu lấy nước uống (khi uống thì cho thêm một chút mật ong và uống lúc thuốc còn ấm để mau khỏi hơn).
- Ghi chú: Thông thường thì người bệnh sẽ nôn ra đờm sau lần uống đầu tiên, tuy nhiên, nếu uống rồi mà vẫn không nôn đờm ra được thì có thể uống thêm 1 lần nữa.
Lưu ý
- Đối tượng cẩn trọng: phụ nữ mang thai và những người lớn tuổi, yếu sức không nên dùng hoặc phải hỏi ý kiến thầy thuốc trước dùng (3).
- Biện pháp thay thế: Hiện nay, cây thanh cao hoa vàng (với chiết xuất thanh hao tố) được dùng phổ biến hơn vị thuốc này vì nó an toàn hơn.
Có Thể Bạn Quan Tâm