Đỗ trọng, thảo dược cho sức khỏe sinh sản và sức khỏe toàn diện
Lúc còn nhỏ, tôi thường thấy mẹ tôi uống thuốc Bắc mà hầu như thang nào cũng có một miếng thuốc vuông vuông, màu nâu xám với các sợi tơ mành kết nối những lườn gỗ với nhau (cầm trên tay thấy giống như một tấm vải bố). Vì lạ và tò mò nên hễ thấy mẹ không chú ý là tôi lại nắm từng lườn gỗ kéo mạnh cho các sợi tơ đứt ra và lấy thế làm vui lắm. Kết quả là lần nào cũng bị la mắng vì nghịch ngợm. Lớn lên, tôi mới biết đó là vị thuốc đỗ trọng.
Không chỉ có tên trong danh sách 50 vị thuốc cơ bản của y học cổ truyền Trung Hoa, đỗ trọng còn đáng chú ý ở chỗ nó cũng là loài duy nhất trong họ của mình, họ cây Đỗ trọng: Eucommiaceae (1).
Đặc điểm
Đỗ trọng (tên khoa học: Eucommia ulmoides, thuộc họ Đỗ trọng: Eucommiaceae) (1) là cây thân gỗ lâu năm có nguồn gốc từ Trung Quốc, về sau được di thực để trồng ở những vùng núi cao của nước ta. Cây còn có các tên gọi khác như: tư trọng, tư tiên, ty liên bì, mộc miên…
Cây đỗ trọng có thể cao hơn 15 m, có vỏ màu xám. Lá đỗ trọng mọc so le, có hình trứng với đầu lá nhọn, mép lá có răng cưa. Khi bẻ đôi vỏ cây hay rứt lá cây thành các mảnh sẽ thấy các sợi nhựa trắng và mảnh như tơ. Quả của cây đỗ trọng có hình thoi dẹt, màu nâu và chứa một hạt màu nâu bóng bên trong (nếu trồng từ hạt thì sau khoảng 7 năm mới ra quả).

Tính vị, công dụng của đỗ trọng
Vị thuốc đỗ trọng là vỏ của thân cây đỗ trọng (chọn cây 10 năm tuổi) đã được sơ chế thành những mảnh dẹt, mặt ngoài màu vàng nâu hoặc nâu xám, mặt trong màu tím đen, có nhiều sợi tơ nhựa đàn hồi (2).
Theo y học cổ truyền, đỗ trọng có vị ngọt, hơi cay, tính ấm, công dụng của đỗ trọng là dưỡng huyết, bổ gan thận, mạnh gân xương, an thai và làm ấm tử cung (2). Trong đông y đỗ trọng là một trong số những vị thuốc rất thông dụng trong các thang thuốc bổ.
Đáng chú ý, đỗ trọng có khả năng điều trị nhiều chứng bệnh liên quan đến chức năng sinh sản ở cả nam và nữ như thận hư, di tinh, liệt dương, đau bụng khi mang thai, động thai ra huyết. Bên cạnh đó, vị thuốc này còn được dùng trong điều trị các bệnh về gan, tiểu đêm, chân yếu gối mỏi, phong thấp, sưng tê phù, tăng huyết áp và bại liệt (2).
Cách dùng: sắc khoảng 12 – 20 g đỗ trọng để uống mỗi ngày (có thể tẩm muối để sao trước khi dùng). Nếu không dùng ở dạng thuốc sắc thì có thể dùng ở dạng cao lỏng, rượu thuốc hoặc viên hoàn tán (2). Ngoài ra, còn có kể kể đến một số bài thuốc có thành phần đỗ trọng như:
- Đổ mồ hôi trộm: dùng đỗ trọng và mẫu lệ (vỏ hầu) với liều lượng bằng nhau rồi tán nhỏ, mỗi lần uống một thìa và uống cùng với rượu (2).
- Phụ nữ hay bị sảy thai: khi mang thai được 2 – 3 tháng có thể dùng thuốc sắc từ các vị sau để an thai: đỗ trọng, ba kích, cẩu tích, thục địa, đương quy, vú bò, củ gai bánh, tục đoạn và ý dĩ sao, mỗi vị 10 g (2).
- Điều trị chảy máu não và di chứng ở bệnh nhân tăng huyết áp: bài thuốc gồm các vị sau: đỗ trọng (12, 5 g), bạch thược (16 g), lá sen và cam thảo (mỗi vị 15, 5 g), sinh địa, mạch môn và tang ký sinh (mỗi vị 10 g), sắc lấy nước và chia ra uống trong ngày (sau 3 – 6 ngày sẽ thấy hiệu quả) (2).
- Trẻ em bẩm sinh ốm yếu, suy dinh dưỡng, còi xương, chậm đi chậm nói, hen suyễn, kinh giản, mất tiếng, lỵ mạn tính, bí chướng: bài thuốc sắc gồm các vị sau: đỗ trọng, sơn dược, sơn thù, phục linh, ngưu tất (mỗi vị 4 g); thục địa (8 g), mẫu đơn và trạch tả (mỗi vị 3 g), ngũ vị (2 g), phụ tử chế (1, 2 g), nhục quế (0, 8 g) (3).
lá đỗ trọng
Một số nghiên cứu về đỗ trọng
- Vỏ cây: Theo tạp chí Bone, chiết xuất từ vỏ cây đỗ trọng có tiềm năng làm thuốc điều trị loãng xương sau mãn kinh (thí nghiệm trên chuột sau 16 tuần điều trị) (4).
- Lá cây: Các kết quả nghiên cứu cho thấy chiết xuất nước từ lá cây đỗ trọng làm giảm tổn thương gan (giảm sưng tế bào gan, hoại tử gan… ) do CCI4 gây ra (5), có tiềm năng điều trị tiểu đường (6) và hoạt tính chống o xy hóa, do đó, uống trà từ lá đỗ trọng thường xuyên sẽ giúp phòng chống ung thư (7).
Lưu ý
- Ở Việt Nam ban đầu không có cây đỗ trọng. Tuy nhiên, có những cây có đặc điểm giống đỗ trọng (bẻ vỏ cây, cuống lá và lá thấy có các sợi tơ mành) như cây chân danh (Euonymus javanicus), cây san hô (hay còn gọi là bạch phụ tử: Jatropha multifida),… nên các cây này cũng được gọi là đỗ trọng nam (phân biệt với cây đỗ trọng có nguồn gốc từ Trung Quốc, hay còn gọi là đỗ trọng bắc) (2).
- Người âm hư hỏa vượng không nên dùng đỗ trọng (2).
Có Thể Bạn Quan Tâm