Củ nâu (vũ dư lương) điều trị liệt nửa người, gãy xương, khí hư và tả lỵ
- Tên khác: Củ nâu còn được gọi là vũ dư lương, khoai leng, thự lương, thự lang, vũ dư lương, giả khôi, má bau, dây tẽn, củ nẫng…
- Tên khoa học: Dioscorea cirrhosa, thuộc họ Củ nâu: Dioscoreaceae (3).
- Tính vị: vị ngọt nhẹ, tính hàn.
- Công dụng chính: Điều trị tiêu chảy, khí hư bạch đới, liệt nửa người, bó gãy xương
Huyền thoại Trung Quốc kể rằng khi vua Hạ Vũ cùng nhân dân chống lũ đã bị thiếu lương thực. Tuy nhiên, nhờ nguồn củ nâu dồi dào có thể ăn được qua ngày mà ông lại được thừa lương thực. Từ đó về sau, củ nâu còn có tên gọi khác là Vũ dư lương (lương thực dư của vua Vũ) (1).
Nói về củ nâu là nói đến áo nâu sồng. Và những người yêu thích Truyện Kiều có lẽ cũng không lạ gì câu thơ miêu tả cảnh Thúy Kiều nương nhờ cửa Phật:
“Mùi thiền, đã bén muối dưa
Màu thiền, ăn mặc đã ưa nâu sồng.” (2).
Ở đây, nâu sồng là màu của trang phục mà nhà chùa (hay nông dân) thường mặc, được nhuộm từ củ nâu và lá cây sồng. Trước đây, khi phẩm nhuộm hóa học chưa lên ngôi, củ nâu đã được dùng rất phổ biến để nhuộm màu quần áo. Và không chỉ là thực phẩm, phẩm nhuộm, củ nâu còn được dùng làm thuốc, bạn đã nghe đến chưa?
Vài nét về củ nâu
Cây củ nâu có tên khoa học là Dioscorea cirrhosa, thuộc họ Củ nâu: Dioscoreaceae (3).
Cây còn có các tên khác như khoai leng, thự lương, thự lang, vũ dư lương, giả khôi, má bau, dây tẽn, củ nẫng… Ở Việt Nam, củ nâu phổ biến ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung.
Cây củ nâu là dạng dây leo, phần thân ở gần gốc có mấu gai. Đặc biệt, những lá củ nâu ở gần gốc thì mọc cách nhau trong khi những lá ở ngọn thì mọc đối nhau, có hình thuôn nhọn. Cây củ nâu cho nhiều rễ củ tựa củ khoai ngọt nhưng tròn hơn, phần thịt bên trong thì có nhiều màu khác nhau tùy theo loại (có loại vỏ không sần sùi, thịt xám vàng nhạt, nhựa đỏ nhạt; có loại vỏ nứt, thịt nâu xám nhạt, nhựa đỏ, có loại vỏ có rãnh, thịt nâu đỏ nhạt, nhựa vàng nhạt pha hồng) (1) (4).

Củ nâu với vai trò làm thực phẩm và làm thuốc
Làm thực phẩm: Củ nâu có vị ngọt nhưng chát và hơi chua. Vì vậy, sau khi gọt vỏ, cần ngâm nước và thay nước ngâm nhiều lần cho củ bớt chát rồi mới luộc để làm thực phẩm.
Làm thuốc: Củ nâu có tác dụng cầm máu, sát trùng nên được dùng ngoài da trong các trường hợp đinh nhọt, da mưng mủ do viêm, bỏng và tổn thương do đòn ngã. Ngoài ra, thuốc sắc từ củ nâu ( 10 – 16 g mỗi ngày) còn có các công dụng như:
- Thanh nhiệt, cầm máu, sát trùng.
- Điều trị ho, ho ra máu, tiêu chảy, kiết lỵ và tiểu ra máu.
- Chống tích tụ và điều trị chứng có hòn khối trong bụng.
- Điều trị huyết trắng, băng huyết và đau bụng dưới (1) (4).
Củ nâu điều trị liệt nửa người và gãy xương
Ngoài các công dụng trên, củ nâu còn được dùng trong hai bài thuốc điều trị các chứng bệnh nặng, nguy hiểm như:
- Liệt nửa người: Các bệnh về não là nguyên nhân chính gây ra chứng liệt nửa người. Được biết, củ nâu cũng là một trong những vị thuốc có thể điều trị căn bệnh này. Theo công trình Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (tập 1), có thể điều trị chứng liệt nửa người bằng cách dùng 60 g củ nâu ngâm với nửa lít rượu trắng trong 5 ngày thì dùng (mỗi ngày uống từ 15 – 30 ml rượu thuốc này và uống trước khi đi ngủ) (4).
- Gãy xương: Theo kinh nghiệm dân gian, nhiều loại cây, lá có thể phục hồi xương khớp sau tổn thương như cây xương khỉ, dây chìa vôi bốn cạnh hay dây đậu xương (không phải dây đau xương)… Theo danh y Hải Thượng Lãn Ông, củ nâu cũng là vị thuốc có thể điều trị gãy xương. Cách dùng: sau khi đã nắn xương gãy trở lại bình thường và gân khớp về đúng vị trí thì lấy củ nâu còn tươi rửa sạch, giã nát rồi đắp lên chỗ tổn thương, sau đó bó và nẹp cố định lại (4).
Một số bài thuốc kết hợp có dùng củ nâu
- Điều trị khí hư: Khí hư (huyết trắng bệnh lý) là bệnh thường gặp ở nữ giới hiện nay. Để điều trị bệnh này, bên cạnh cách dùng độc vị như đã kể trên, các bệnh nhân cũng có thể tham khảo bài thuốc kết hợp sau: củ nâu (sao đen), bạch đồng nữ (mỗi thứ 20 g), mẫu lệ, kim anh, ích trí nhân (mỗi thứ 12 g), đảng sâm (40 g), thán khương (tức gừng đã đốt cháy) (8 g), sắc và chia thành 2 lần uống trong ngày (4).
- Điều trị tiêu chảy, kiết lỵ: Cây củ nâu còn được dùng lá trong bài thuốc điều trị tiêu chảy, kiết lỵ sau đây: lá củ nâu, lá sim và lá lấu, mỗi loại dùng 20 g và sắc lấy nước uống trong ngày (4).
Một số nghiên cứu về củ nâu
- Hoạt tính kháng khuẩn và chống oxy hóa: Một nghiên cứu của các tác giả Trung Quốc cho thấy chiết xuất etanolic từ củ nâu có tác dụng kháng khuẩn và chống oxy hóa (5).
- Tác dụng cầm máu: Kết quả thí nghiệm cho thấy khả năng cầm máu của củ nâu trên thỏ là 96 % và ở chó là 85 %. Vì vậy, củ nâu được xem là thảo dược có tiềm năng cầm máu nhanh và hiệu quả (6).
Lưu ý
- Đối tượng: Củ nâu không độc nhưng có tính hàn, vì vậy, không nên lạm dụng quá nhiều. Bên cạnh đó, những người bị bệnh không phải do hư chứng và trong người có thực tà thì không nên dùng. Phụ nữ mang thai cũng không nên dùng củ nâu (1) (7).
- Phân biệt: Cần phân biệt củ vũ dư lương (tức củ nâu) là một loài thực vật với vũ dư lương là một loại khoáng thạch quặng thiếc cũng được dùng làm thuốc.
Có Thể Bạn Quan Tâm